Thế rồi thầy lang Ngang xách gói ra đi. Một ngày sau thầy không quay lại. Cô gái đầu buồn xỉu mặt. Ngày thứ hai vẫn vắng bóng thầy. Cô gái đầu lầm lì không nói. Ngày thứ ba, cô sinh ra cáu gắt, quát mắng lung tung. Ngày thứ tư, cô hát, cái giọng rè rè nửa trống nửa mái cất lên nghe như tiếng bánh gỗ xe trâu. Đám em út ôm bụng cười. Bà Li tái mặt, ông Hi lầu bầu chưởi. Ngày thứ năm cô cười nhạt. Thật là vô duyên và vô cớ. Cô cười như con đười ươi trong chuyện cổ tích. Cười chán chê suốt ngày, chập tối ăn cơm xong thì cô đột ngột im lặng. Lại sắp chuyển qua thứ quái dị nào đó chăng? Cả nhà hồi hộp chờ. Nhưng khi bà mẹ chuẩn bị lên giường nằm ngủ thì lũ em út mới chợt phát hiện ra chị cả chúng nó đã biến khỏi nhà. Ông Hi hoảng hốt đốt bó đuốc chạy bủa ra bìa rừng, đạp tắt đường về phía chợ. Vẵn biệt tăm mất tích. Bà mẹ khóc tấm tức. Lũ con nít vẫn rúc rích cười . Ông Hi điên tiết chưởi:
- Cười cười cái con mạ chúng mày! Ăn bùa cả lũ rồi... Cả nhà đều quả quyết như vậy. Nỗi căm tức dồn vào thầy lang trẻ. Biết tìm hắn ở đâu? Một đêm trôi qua, lại thêm một ngày nữa... Thầy Ngang không quay lại mà cô gái đầu cũng chẳng quay về. Cả nhà buồn như có tang.
Gần một tuần sau, trong lúc ông Hi và bà Li đã hoàn toàn thất vọng thì đột ngột Ngang quay lại. Vẫn cái hàm răng vẩu âý cười một cách vô tư từ ngoài ngõ. Ông Hi giật cây rựa trên mái nhà lao bổ ra. Bà Li hốt hoảng giằng tay ông lại. Ngang hầu như không thèm để tâm đến sự căm giận ngút trời ấy, anh bước vào nhà, thản nhiên ngồi ghế, giọng nói vẫn cởi mở!
- Cô La đang ở chỗ tôi...
Trời đất ơi, thế có mặt dạn mày dày không chứ! Ông Hi rít hai hàm răng lại, chồm người tới:
- Mi...mi bỏ bùa con tao! Đồ chó!...
Ngang cười hô hố:
- Thì cả nhà thách đố tôi kia mà. Bây giờ đã chịu hẳn chưa?
Ông Hi giận tím mặt, cây rựa run run trong tay. Bà Li mếu máo túm lấy vạt áo Ngang, mắt rơm rớm nước:
- Thôi thì... lạy thầy! Lạy thầy trăm lạy... Thầy đã thương đến gia đình cháu..đã ra tay chữa chạy cho bố cháu... Công ơn ấy đến chết cũng không báo đáp hết được. Nhưng thầy đã thương thì thương cho trót, thầy cho cháu nó về.. cháu nó còn phải chăm sóc các em... Tội nghiệp ! Các em cháu còn quá nhỏ dại..
Bà đột ngột quay lại lũ trẻ, vừa méu máo vừa quát:
- Chúng bay quỳ xuống đi! Quỳ xuống mà lạy thầy đi các con! Trăm lạy, ngàn lạy thầy tha cho chị về...Mau lên đi, các con!
Nước mắt bà trào xuống má. Lũ trẻ cùng oà lên khóc. Cả căn nhà nháo nhác như đưa ma.
Hình như thầy cũng xúc động, cho nên giọng thầy đột ngột trầm hẳn xuống, đầy quan trọng:
- Nếu tôi không thương hai bác, không thương các em thì tôi không quay trở lại- Anh khẽ thở dài rồi quay nhìn lũ trẻ- Bác gái đưa các em xuống dưới bếp, tôi có chuyện muốn thưa với bác trai.
Bà Li giang cả hai tay ra lùa đám trẻ như kiểu lùa vịt xuống nhà bếp. Còn lại hai người đàn ông ngồi đối diện nhau giữa căn nhà. Bà Li đứng thập thò ở máng xối đầu hồi nhà lắng tai nghe.
- Bác hãy cất cây rựa đi, ta cần cởi mở với nhau.
Ông Hi lầu bầu:
- Kệ tau. Mi muốn nói chi cứ nói...
- Cất rựa đi đã! Thầy lang ra lệnh. Nếu không tôi chỉ cần lệch bàn tay một cái bác lại phát điên ngay tức khắc. Lúc ấy chẳng còn thứ thuốc thang nào chữa nổi đâu.
Ông Hi hơi tái mặt nhưng vẫn chần chừ, bà Li vội vàng chạy lên giật cây rựa trong tay ông rồi lại hớt hải chạy xuống bếp.
- Con gái bác đang ở chỗ tôi...thật là phiền. Tôi chẳng muốn tí nào. Thời buổi làm ăn khó lắm, chẳng đủ nuôi cơm...
- Mi...mi...đù mạ! Chính mi đã bỏ bùa con tau...lại còn...
- Làm gì có chuyện bùa mê! Chẳng qua hôm nọ tôi nói đùa vậy để làm vui cho lũ trẻ thôi.
- Láo! Nếu không thế...vì răng con La lại trốn theo mi?
- Cô ta thích tính tôi...Mấy lại, cô ta không ra khỏi nhà này thì tính mạng bác sẽ bị đe doạ.
Ông Hi chồm người dậy khỏi ghế.
- Cái chi? Ai đe doạ ta?
- Thần
- Thần nào?
Cả nhà bỗng nín lặng. Linh cảm mách bảo cho ông Hi, bà Li thấy ta hoạ đang chập chờn trước ngõ. Thầy Ngang khẽ hắng giọng nói nhẹ nhàng:
- Cái bệnh của bác tuy uống thuốc vào có đỡ ra nhưng không thể khỏi hẳn được đâu. Bởi nhà bác có phạm một điều quá ghê gớm. Nhà bác có đến mười người, đó là sự sai phạm không chi tha thứ được. Thánh nhân đã nói, nhân bất thập toàn. Bác cứ chịu khó đi các nhà thờ, các đình chùa miếu vũ mà coi, có ai thờ mười con rồng đâu? chỉ có chín con thôi. Chín bỏ làm mười mà...
- Nhưng... nhà tôi răng lại mười người? Có bảy chị em chúng nó với hai vợ chồng tôi...
- Có một người nữa. Bác đừng lấy vải thưa che mắt thánh!
Mặt ông Hi tái nhợt. Ở đầu chái bếp, hai đầu gối bà Li run run.
- Nói vậy chứ tuỳ bác. Bác nghe lời thánh thì sống không nghe thì phải rước lấy tai họa. Một là bác phải bán gả cô La đi. Hai là phải đẩy cái hình nhân đi khỏi nhà. Ba là...bác phải chết. Tôi thương gia đình nên mới quay lại đây tiết lộ cơ trời, còn bản thân tôi cũng chẳng sức đâu mà ôm rơm dậm bụng...
Thầy ngang đứng dậy, đôi mắt đùng đục nhìn thẳng vào ông Hi. Trong cái giây phút tâm thần bất định ấy, ông Hi nhìn thầy trước mặt mình không phải là thầy thuốc trẻ, có tài, vui tính, mà là một lão phù thuỷ tin quái và bí hiểm. Cả người ông lạnh đi, đầu óc mụ mẫn không con nghĩ ra được một câu đối đáp nào. Ngang bước ra khỏi mái nhà, lửng thửng đi thẳng. Cả nhà nín lặng nhìn theo...
Những ngày sau đó, thầy Ngang không trở lạ. Một không gian âm u bao trùm lấy căn nhà một gian hai chái bên bờ bầu nước đầy rêu đen. Không ai trong nhà còn thiết làm một công việc gì nữa. Ngay cả lũ trẻ cũng cảm thấy có gì đó không tốt lành sắp sửa xảy ra với bố mẹ, cho nên cả lũ cũng trở nên buồn bã, chẳng cười đùa.
Đêm xuống mới thâm trầm và tẻ lạnh làm sao ! Có lẽ lần đầu tiên bà Li mới thấm thía hết nỗi cô độc của mình. Đã gần ba chục năm, kể từ ngày bị bán gả cho tên tướng cướp, bà mang mối hận với gia đình, tự đoạn tuyệt với bố mẹ để gửi thân vào người đàn ông đã cứu thoát mình. Bà không đủ tháo vát để hiểu rằng, cái nơi vợ chồng bà đang sinh sống chỉ cách làng cũ chừng hai ngày đi bộ. Đối với bà, quá khứ sinh ra chỉ là một ảo giác. Cố tình đừng nghĩ đến nó, cố mà quên đi cái gốc gác cội rễ của mình, chôn chân trong mái lều như con nhộng trú mình vào vỏ kén, hy vọng cái ngày đột nhiên hoá kiếp thành con bướm xa lạ với mọi người.
Với nỗi niềm khao khát ngây thơ ấy, Li đâm ra oán hận chồng, cái kẻ điên rồ cố tâm cất giữ cái bọc đỏ quái dị ấy ! Giữ gìn nó làm chi kia chứ. Vẫn biết đó là một kho của cải khổng lồ, nhưng khốn thay nó vẫn là cái bọc đỏ chôn chặt dưới đất. Và theo nó là cái quá khứ rùng rợn, những mặt người hung dữ và quái đản...Cũng đã có lần Li bàn với chồng :
- Nếu bố nó ham giàu thì đem bán nó đi... lấy tiền mà ăn xài...Ông Hi giật bắn lên như chó phải bỏng :
- Bán ư ? Cha mẹ ơi, ai đủ tiền mà mua ? Mình biết ra sao mà bán ? Không khéo lại còn bị cướp đoạt. Không chừng còn bị chết người...
- Thế thì... cất giữ nó làm gì. Vứt cha nó đi có hơn không ? ông Hi lại hét rống lên :
- Bà điên à ? cả một khối của cải như vậy mà vứt đi ? đồ ngu si !
Sau những đêm cãi vã như vậy, bà Li đâm ra buồn bã và mệt mỏi, còn ông Hi thì hoảng loạn. Tình cảm vợ chồng ngày một tẻ nhạt. Hai người trôi trong hai dòng ưu phiền khác nhau, ngày một xa lạ nhau.
Bây giờ nghe những lời khủng bố của thầy Ngang, mặc dầu vẫn còn oán giận thầy nhưng thâm tâm bà Li cũng tự thừa nhận là đúng.